banner2019
 
Thứ tư, ngày 18 tháng 12 năm 2024
Thứ tư, ngày 18 tháng 12 năm 2024
Nhiều thách thức trong hoạt động công đoàn Việt Nam khi hội nhập TPP
Cập nhật lúc 06:32 ngày 22/06/2016

Là nhận định của ông Mai Đức Chính, Phó Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam khi bàn về một số vấn đề về lao động, vai trò của các tổ chức công đoàn khi nước ta chính thức gia nhập hiệp định xuyên Thái Bình Dương (TPP).

Ngày 21.6, Hội thảo "Hoàn thiện hệ thống pháp luật lao động, việc làm, an sinh xã hội phù hợp Hiến pháp 2013, hội nhập quốc tế và thực thi cam kết TPP" đã được Ủy ban về các vấn đề xã hội, Ủy ban đối ngoại của Quốc hội chủ trì, phối hợp với Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam và Tổ chức lao động quốc tế (ILO) tại Việt Nam tổ chức tại TP Đà Nẵng.

Ông Mai Đức Chính - Phó chủ tịch Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam phát biểu tại hội thảo

Phát biểu khai mác, ông Bùi Sỹ Lợi, Phó Chủ nhiệm Ủy ban về các vấn đề xã hội khẳng định, việc tham gia Hiệp định TPP sẽ thúc đẩy Việt Nam hoàn thiện nhanh hơn thể chế kinh tế thị trường, cơ cấu lại nền kinh tế, cơ cấu lại lực lượng lao động và chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế. Trong lĩnh vực lao động, các cam kết của TPP đòi hỏi chúng ta phải đáp ứng được các tiêu chuẩn lao động và quan hệ lao động theo Tuyên bố về các nguyên tắc và quyền cơ bản trong lao động năm 1998 của Tổ chức lao động quốc tế (ILO).

Để đáp ứng yêu cầu của TPP, một trong những điểm Việt Nam cần điều chỉnh là chương XIII trong Bộ luật Lao động, cho phép người lao động trong doanh nghiệp được thành lập tổ chức của mình.

Bàn về vấn đề này, ông Mai Đức Chính Phó Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam cho rằng, những cam kết về Công đoàn trong Hiệp định TPP đặt ra thách thức rất lớn cho tổ chức và hoạt động của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam:

Thứ nhất, việc cho phép người lao động làm việc trong một doanh nghiệp, không có sự phân biệt được thành lập tổ chức của người lao động ở cấp cơ sở theo sự lựa chọn của họ mà không phải xin phép trước. Để được hoạt động, tổ chức của người lao động ở cấp cơ sở phải đăng ký với Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam hoặc với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tùy theo sự lựa chọn của tổ chức đó.

Đây là thách thức rất lớn cho tổ chức và hoạt động của Công đoàn Việt Nam, nếu Công đoàn hoạt động thật sự có hiệu quả, mạnh dạn đấu tranh đòi hỏi quyền lợi sát sườn của người lao động, nói lên được tiếng nói bức xúc của người lao động, thì các tổ chức của người lao động mới ra đời sẽ gia nhập vào Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, tạo thêm sức mạnh cho tổ chức Công đoàn Việt Nam, góp phần thực hiện có hiệu quả các Chủ trương đường lối của Đảng đối với phong trào công nhân và ngược lại nếu công đoàn hoạt động hời hợt, không hiệu quả, không đấu tranh cho quyền lợi của người lao động thì các tổ chức của người lao động mới ra đời sẽ không gia nhập vào Công đoàn Việt Nam mà họ tự liên kết lại để bảo vệ quyền lợi của người lao động. 

Thứ hai, tổ chức của người lao động không phải thực hiện các nghĩa vụ và trách nhiệm chính trị mà không trái với những quyền lao động được nêu trong Tuyên bố của ILO, nên tổ chức của người lao động chỉ tập trung vào nhiệm vụ chăm lo, đại diện, bảo vệ quyền lợi của người lao động. Trong khi đó hệ thống Công đoàn Việt Nam phải thực hiện các nhiệm vụ của tổ chức chính trị - xã hội nên nguồn lực bị phân tán, thiếu cơ chế chủ động trong tuyển dụng, đào tạo, sử dụng,… cán bộ công đoàn, nếu cán bộ công đoàn cấp trên cơ sở không được tuyển chọn trong phong trào công nhân, từ thủ lĩnh của công nhân, mà chỉ do cấp ủy thi tuyển, đưa về không am hiểu và gần gũi công nhân thì dẫn đến hệ lụy là công đoàn ngày càng xa rời công nhân.

Nếu tổ chức Công đoàn không nhanh chóng đổi mới mạnh mẽ về tổ chức và hoạt động thì rất dễ xảy ra “dòng chảy” đoàn viên công đoàn từ Công đoàn Việt Nam sang tổ chức mới của người lao động.

Thứ ba, nguồn lực đảm bảo cho hoạt động của Công đoàn Việt Nam có nguy cơ bị giảm sút, nguồn thu tài chính của các cấp công đoàn thuộc Tổng Liên đoàn giảm mạnh (thời kỳ đầu là đoàn phí, sau đó là kinh phí công đoàn).

Nếu Công đoàn Việt Nam không có nguồn lực đủ mạnh để tạo ra những quyền lợi khác biệt và lớn hơn giữa đoàn viên công đoàn và NLĐ không phải là đoàn viên công đoàn sẽ bất lợi trong việc cạnh tranh, thu hút người lao động và tổ chức của người lao động mới thành lập gia nhập tổ chức Công đoàn Việt Nam.

Mặt khác, tổ chức của NLĐ có thể yêu cầu và nhận sự trợ giúp kỹ thuật và đào tạo từ các tổ chức của người lao động Việt Nam hoặc quốc tế đang hoạt động hợp pháp tại Việt Nam hoặc các doanh nghiệp FDI, doanh nghiệp khu vực ngoài nhà nước sẽ sẵn sàng hỗ trợ kinh phí cho “tổ chức của người lao động ở cơ sở” với mục đích để thao túng tổ chức của người lao động mà pháp luật chưa quy định tới hoặc cơ quan quản lý nhà nước chưa đủ năng lực để phát hiện và xử lý.

Ông Chính  kết luận, vì vậy, vấn đề đặt ra là: Trước tình hình mới Công đoàn Việt Nam phải vững vàng về tổ chức, cán bộ phải tâm huyết, bản lĩnh, mạnh về cơ sở vật chất thì mới đủ sức thu hút đối với người lao động và tổ chức mới của người lao động. 

Nguồn Báo Lao động