banner2019
 
Thứ năm, ngày 07 tháng 11 năm 2024
Thứ năm, ngày 07 tháng 11 năm 2024
Một số nhận thức về giai cấp công nhân và chủ nghĩa xã hội được bổ sung hiện nay
Cập nhật lúc 08:36 ngày 28/10/2016

C.Mác có nhiều nhận định về giai cấp công nhân, Đảng Cộng sản, những đặc trưng, điều kiện và một số nhân tố khác nữa của quá trình hình thành xã hội Xã hội chủ nghĩa và xã hội Cộng sản chủ nghĩa. Bối cảnh hiện nay cũng đã xuất hiện một số tình huống đặt vấn đề hoặc làm nảy sinh nhu cầu bổ sung, phát triển những quan niệm của Mác.


Tính phức tạp của việc nghiên cứu là ở chỗ, hình thái này chưa tới, tất cả các dữ liệu để tư duy lại đều đang vận động và thay đổi. Và có thể, có những cái chưa đúng hiện nay nhưng sẽ đúng trong tương lai. Cái hiện nay chưa xuất hiện không phải là nó không thể xuất hiện... Với quan niệm rằng, chủ nghĩa Mác chỉ có thể được bảo tồn và làm giàu một cách sáng tạo trong thời đại ngày nay, trên cơ sở những thành tựu mới của cách mạng khoa học - kỹ thuật hiện đại và đánh giá đúng những thay đổi lớn của thế giới. Và cũng như bất kỳ môn khoa học nào, chủ nghĩa Mác không phải không có những dự báo cần được bổ sung nhận thức mới.

Giai cấp công nhân hiện đại đã có nhiều biến đổi so với thế kỷ XIX

 Về nguồn gốc xuất thân từ đô thị của giai cấp công nhân hiện nay

Giai cấp công nhân thời Mác là giai cấp lao động, làm thuê, bị bóc lột và xuất thân chủ yếu từ nông dân và nông thôn. Nhưng từ những năm 60 của thế kỷ XX trở lại đây, xu thế đô thị hóa và đông đảo cư dân đô thị đã bổ sung một lượng lớn vào nguồn nhân lực của giai cấp công nhân.

Trong những thập niên gần đây, quá trình đô thị hóa trên thế giới có sự khác biệt khi so với vài thế kỷ trước đây và đang diễn ra với tốc độ cao.

Trước đây, các vùng tụ cư trong lịch sử nhân loại thường ở lưu vực các con sông lớn, nơi thuận tiện cho canh tác nông nghiệp và có nguồn nước cho sinh hoạt. Ngày nay, đặc biệt là từ giữa thế kỷ XX, bắt đầu xuất hiện những thành phố lớn trên sa mạc như LasVegas cùng nhiều đô thị ở Trung Đông… Chúng hầu như được xây dựng và phát triển dựa trên nguyên lý mới: khắc phục sự khắc nghiệt của tự nhiên, nhân tạo hóa các điều kiện sống bằng khoa học và công nghệ hiện đại. Đây là một quá trình gắn liền với phát triển văn minh và công nghệ. Đó là những thành phố được dịch vụ bởi công nghệ hiện đại. Nó cần đến công nghệ mới, công nghiệp và công nhân.

Hiện nay, khu vực có mức đô thị hóa cao nhất là Bắc Mỹ với 82% dân số sống ở đô thị, tiếp đó là Mỹ La tinh và Caribbean 80% và châu Âu 73%. Báo cáo “Nhìn lại triển vọng đô thị hoá thế giới” của Liên hợp quốc năm 2005, mô tả “thế kỷ XX đã chứng kiến quá trình đô thị hoá nhanh chóng của cư dân thế giới” với tỷ lệ cư dân đô thị tăng từ 13% (220 triệu người) năm 1900 lên 29% (732 triệu người) năm 1950 và 49% (3,2 tỷ người) năm 2005. Báo cáo này cũng ước tính rằng vào năm 2030 con số đó sẽ là 60% (4,9 tỷ người). Một nhà nghiên cứu nhận định: “Chúng ta đã chưa bao giờ có một cuộc cách mạng nhân khẩu học nhanh và triệt để như cuộc cách mạng của 100 năm qua. Vào năm 1900 hay khoảng đó, gần 95% người ở khắp thế giới làm công việc chân tay. Và cũng chỉ có gần 5% người đã sống ở đô thị có dân cư trên 100.000 dân. Ngày nay, ở các nước phát triển, tỷ lệ người làm công việc chân tay đã giảm xuống chỉ còn từ 20 - 25% trong lực lượng lao động và gần 50% dân cư sống ở đô thị.”(1) Từ đây đang hình thành dự trữ cho lực lượng lao động hiện đại.

Ở các nước đang phát triển và phát triển ở trình độ cao, từ những năm 60 thế kỷ XX trở lại đây, nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa có một bộ phận lớn và ngày càng tăng, được tuyển mộ từ nhóm cư dân đô thị. Cơ cấu xuất thân của công nhân cũng đa dạng hơn: họ xuất thân từ gia đình công nhân truyền thống, từ gia đình trí thức - công chức, tiểu thương, dịch vụ… Lối sống đô thị khá gần gũi với tác phong lao động công nghiệp cũng giúp cho người lao động bớt bỡ ngỡ khi tham gia vào phương thức sản xuất công nghiệp.

Đô thị hóa làm xuất hiện ngày một đông đảo hơn đội ngũ lao động làm thuê, vốn có mặt từ thời Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, gồm “bác sĩ, luật gia, tu sĩ, thi sĩ, bác học đều bị giai cấp tư sản biến thành những người làm thuê...”(2). Song hiện nay họ đông đúc hơn, đa dạng hơn. Đó là nhóm lao động dịch vụ xã hội với hàng nghìn nghề khác nhau. Xét về cơ cấu xã hội, các nhà nghiên cứu đều thấy sự tăng lên của những nhóm lao động dịch vụ mới. Họ là những người kết hợp cả lao động chân tay và lao động trí óc. Trong các quốc gia phát triển đã có sự xuất hiện một cơ cấu xã hội mới với vai trò mới của trí thức, công nhân tri thức. Piter Druke cho biết: “Người làm việc cả bằng tay lẫn bằng kiến thức lý thuyết đã tạo thành nhóm tăng nhanh nhất trong lực lượng lao động Mỹ từ 1980. (Thí dụ các kỹ thuật viên máy tính, kỹ thuật viên X quang, nhà vật lý trị liệu, các kỹ thuật viên phòng thí nghiệm y khoa..,”(3). Cũng bởi vậy, ở nhiều nước phát triển hiện nay, liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân đã không còn cơ sở xã hội như thế kỷ XIX và thay vào đó là liên minh giữa những người lao động mà chủ yếu là hai nhóm ngành lao động đông đảo ở đô thị là sản xuất công nghiệp và dịch vụ bằng phương thức công nghiệp.

Đô thị là nơi mà đấu tranh giai cấp hiện đại bộc lộ tính điển hình của nó. Ph.Ăng ghen từng viết: “Các thành phố lớn là nơi bắt nguồn của phong trào công nhân: nơi đây công nhân lần đầu tiên đã bắt đầu suy nghĩ về tình cảnh của mình và đấu tranh để thay đổi nó, nơi đây sự đối lập về lợi ích giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản lần đầu đã biểu lộ ra, nơi đây những liên đoàn lao động, phong trào Hiến chương và chủ nghĩa xã hội đã ra đời…” (4)

Phân hóa sâu sắc của xã hội đô thị hiện nay cũng khiến cho các điểm nóng xã hội, các cuộc đấu tranh chính trị hiện đại xuất hiện thường xuyên hơn tại các đô thị - đấu trường của chính trị hiện đại. Cuốn sách Thế kỷ của những cuộc cách mạng 1789 - 1848 (xuất bản năm 1962 và tái bản 2005) của nhà sử học Eric Hobsbawm nói về vấn đề đó. Tác giả đã nhận định “Phát triển đô thị trong giai đoạn giai đoạn 1789 - 1848 là một quá trình chia tách giai cấp khổng lồ, đã đẩy những người lao động nghèo vào các vũng lầy khổng lồ của tình trạng khốn cùng bên ngoài các trung tâm của chính phủ, của các doanh nghiệp và của các khu dân cư của giai cấp tư sản”… Mô tả này tương tự như quan sát và phân tích của Ph.Ăng ghen về mặt tối của các đô thị công nghiệp trong “Tình cảnh giai cấp công nhân Anh”. Và hiện nay thì, Liên hợp quốc nhận định: “Quản lý đô thị đã trở thành một trong những thách thức phát triển quan trọng nhất trong thế kỷ XXI” (5).

Theo đó, cuộc đấu tranh vì tiến bộ xã hội hiện nay, sát cánh cùng giai cấp công nhân là các tầng lớp cư dân đô thị và các nhóm lao động dịch vụ. Trong quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công nhân không thể không quan tâm tới lực lượng xã hội to lớn này trong các đô thị.

Cơ cấu đa dạng của giai cấp công nhân hiện đại cũng làm nảy sinh những nhu cầu bổ sung nhận thức mới

Trình độ mới của sản xuất và dịch vụ cùng với cách tổ chức xã hội hiện đại cũng làm cho cơ cấu của giai cấp công nhân hiện đại đa dạng tới mức nội hàm của nó liên tục phải điều chỉnh theo hướng mở rộng: theo lĩnh vực (công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ) theo trình độ công nghệ (bộ phận công nhân áo xanh - công nhân của công nghiệp truyền thống; áo trắng - công nhân có trình độ đại học cao đẳng chủ yếu làm công việc điều hành quản lý sản xuất; áo vàng - công nhân của các ngành công nghệ mới, áo tím - công nhân dịch vụ - lao động đơn giản như gác cầu thang, vệ sinh đô thị…); Phân loại công nhân theo sở hữu (có cổ phần, có tư liệu sản xuất và trực tiếp lao động tại nhà để sống và, không có cổ phần). Phân loại công nhân theo chế độ chính trị (công nhân ở các nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, ở các nước G7, ở các nước đang phát triển)...

Cũng vì vậy, đã có hàng chục khái niệm để chỉ giai cấp công nhân và có nhiều điểm khác biệt về nội hàm khi so sánh các khái niệm ấy với nhau. Sự mở rộng nội hàm ấy đã khiến cho, chỉ còn đặc điểm lao động và bị bóc lột sức lao động (được dùng từ thời C.Mác) là có thể chấp nhận được. Còn các tiêu chí - phẩm chất khác như gắn liền với máy móc công nghiệp, lao động mang tính xã hội hóa, có tính tổ chức, kỷ luật và triệt để cách mạng, có tinh thần quốc tế và bản sắc dân tộc… trong nhiều trường hợp cụ thể, là tương đối khó nhận diện.

Vấn đề đặt ra là ở chỗ trí thức là người lao động, song có thực sự nên coi họ là bộ phận của giai cấp công nhân hiện nay hay không? Có nơi (như Trung Quốc) cho luôn trí thức vào tầng lớp giai cấp công nhân “cho tiện”, song khái niệm giai cấp công nhân hiện đại cũng thật khó bao chứa những nhóm lao động này, nếu không muốn nói tới nguy cơ là làm tan loãng - xóa nhòa giai cấp công nhân.

Vấn đề khác là, một giai cấp mà có nhiều nhóm, đội ngũ, tầng lớp với các bộ phận có trình độ giác ngộ khác nhau như vậy, thì sự thống nhất - đoàn kết về ý chí và tổ chức sẽ diễn ra như thế nào? Đã có tình trạng người lao động công nghiệp mà không tự coi mình là giai cấp công nhân! Họ coi mình là “giai cấp trung lưu”, vừa làm thuê lại vừa “hữu sản” thông qua chế độ cổ phần… Đã có tình trạng “đa nguyên công đoàn” ở nhiều nước và Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đã thừa nhận như một quyền của người lao động - quyền “tự do nghiệp đoàn”.

Sự yếu ớt về chính trị và tổ chức của các đảng cộng sản, sự chia rẽ, phân liệt giữa các đảng cộng sản và đảng công nhân hiện nay cùng những vấn đề đặt ra từ lợi ích quốc gia dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa, liệu có thể là những trở lực từ bên trong để ngăn cản khẩu hiệu “Công nhân toàn thế giới đoàn kết lại” để chống giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản hay không? Chính những vấn đề khách quan trên đã đặt ra nhu cầu bổ sung nhận thức mới về giai cấp công nhân, một giai cấp luôn phát triển cùng với sự phát triển của công nghiệp và cách mạng khoa học và công nghệ. 

Về quan điểm với sở hữu tư hữu và xóa bỏ chế độ người bóc lột người trong điều kiện hiện nay

C.Mác nghiên cứu sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa rất sâu sắc và nhận định thường thiên về các kết luận về sự chấm dứt vai trò lịch sử của nó, do không còn phù hợp với tính chất xã hội của lực lượng sản xuất và tính chất bất công, phi nhân của bóc lột. Thực tế và kết quả nghiên cứu của Việt Nam và nhiều nước khác, do được “đứng trên vai hai người khổng lồ” (dựa theo lý luận của C.Mác và thực tiễn cải cách, đổi mới) nên nhận thức đã tiến xa hơn ở chỗ: thừa nhận tính tất yếu, sự tồn tại lâu dài của sở hữu tư nhân cùng khả năng liên kết với các hình thức sở hữu khác và đóng góp của nó trong khi xây dựng chủ nghĩa xã hội. Một số tư duy mới đã có tính đột phá, chẳng hạn: khuyến khích sự phát triển kinh tế tư nhân trong các lĩnh vực ngành nghề mà nhà nước không cấm.

Vấn đề bóc lột của nó đã được nhìn rộng hơn, sâu hơn, biện chứng hơn. Chẳng hạn, bị bóc lột cũng “được”, và đi bóc lột cũng “mất”! Người lao động “được” gì khi tham gia vào quá trình sản xuất tư bản? Với những công nhân Việt Nam xuất thân từ nông dân, họ có nghề nghiệp, kỹ năng lao động mới, thu nhập tăng hơn, được tiếp cận môi trường lao động hiện đại với phương thức lao động và quản lý mới… Nhà nước thu được thuế, tiếp cận với công nghệ mới, kinh tế thị trường và sản xuất hàng hóa hiện đại, qua đó mà phát triển sản xuất và “làm bạn, là đối tác” và chủ động, tích cực hội nhập kinh tế thế giới… Người sử dụng lao động cũng phải chia sẻ bí quyết công nghệ, chia sẻ thị trường, kinh nghiệm quản lý, chấp nhận sự nguy hiểm của đồng vốn khi đầu tư v.v. chứ không chỉ biết có lợi nhuận. Nguyên tắc hai bên, các bên cùng có lợi là một yêu cầu khách quan và đã diễn ra trên thực tế. (6)

C.Mác và Ph.Ăngghen cắt nghĩa sự hình thành sở hữu tư nhân bằng 2 nguyên nhân: phân công lao động và sự phát triển lực lượng sản xuất. Sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội đã đưa lại năng suất lao động ngày một cao và xuất hiện của cải dư thừa. Đây là điều kiện khách quan làm xuất hiện sự chiếm đoạt của cải ở một số người có quyền lực và sự phân hoá xã hội thành những giai cấp đối kháng. Sự hình thành nhà nước với tư cách là bộ máy cai trị và áp bức để duy trì quyền lực chính trị và quyền lực kinh tế - quyền định đoạt quá trình phân phối sản phẩm sản xuất được cũng là một nhân tố được C.Mác và Ph.Ăngghen coi như một nhân tố duy trì và làm phát triển sở hữu tư nhân.

Song, vai trò của giai cấp tư sản trong quản lý sản xuất và quản lý xã hội thì rõ ràng ở thời C.Mác và Ph.Ăngghen không thể có được luận cứ thực tiễn đầy đủ như hiện nay. Tuy nó là những yếu tố thuộc về quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng song, thực tiễn hiện đại xác định rằng, nó cũng góp phần hỗ trợ cho quá trình phát triển sản xuất và văn minh. Tuy nó là một nhân tố để duy trì và phát triển sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, nhưng cũng là nhân tố hợp lý cần được giai cấp công nhân kế thừa (ở những mặt như kinh nghiệm tổ chức, quản lý sản xuất, kinh nghiệm sử dụng động lực lợi ích vật chất…) trong thời kỳ qúa độ đi lên chủ nghĩa xã hội, hoàn thành sứ mệnh của mình.

C.Mác cũng chưa lường trước được rằng, lao động bị tha hóa vẫn có thể tái diễn ở trong chế độ xã hội chủ nghĩa ở thời kỳ quá độ của nó. Nguyên nhân của sự tha hóa này hiển nhiên vẫn bắt nguồn từ trình độ của lực lượng sản xuất, song thực tế của Việt Nam hiện nay cũng còn chỉ rõ rằng, cơ chế quản lý yếu kém và trình độ quản lý sản xuất và quản lý xã hội bất cập cùng quan liêu, tham nhũng lại là nguyên nhân trực tiếp để lao động chưa được trả công xứng đáng. Điều nghịch lý là những hiện tượng đó lại xuất hiện trong chế độ coi công hữu là nền tảng và đôi khi ngay trong thành phần kinh tế nhà nước.

Vì vậy, nhận thức cần phải được bổ sung rằng, trong quá trình phát triển của nhân loại, để xóa bỏ sở hữu tư nhân thì bên cạnh phát triển lực lượng sản xuất, thúc đẩy phân công lao động xã hội, làm cho “nhà nước trở thành nửa nhà nước” thì vai trò quản lý sản xuất và quản lý nhà nước với các quá trình xã hội cần phải được coi là nhân tố trực tiếp để hạn chế và xóa bỏ tận gốc hiện tượng người bóc lột người.

Về chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân và chủ nghĩa dân tộc 

C.Mác và Ph.Ăngghen, trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, có quan niệm rằng, “Những người cộng sản chỉ khác với các đảng vô sản khác …là, trong các cuộc đấu tranh của những người vô sản thuộc các dân tộc khác nhau, họ đặt lên hàng đầu và bảo vệ những lợi ích không phụ thuộc vào dân tộc và chung cho toàn thể giai cấp vô sản…”(7). Quan điểm ấy, cho đến nay chưa được chứng minh thông qua thực tiễn cách mạng xã hội chủ nghĩa ở thế kỷ XX và đặc biệt là trong điều kiện phức tạp của chính trị thế giới hiện nay.

Chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân đã đóng vai trò tích cực với cách mạng giải phóng dân tộc, cách mạng xã hội chủ nghĩa và đang tiếp tục vai trò ấy trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay(8). Nhưng thực tế cách mạng giải phóng dân tộc trước đây và toàn cầu hóa hiện nay còn chỉ ra rằng “chủ nghĩa dân tộc còn là một động lực lớn” cho sự nghiệp giải phóng. Một vấn đề có tính quy luật đang dần rõ là: Tất cả các Đảng Cộng sản cầm quyền và các đảng đang đấu tranh để cầm quyền đều phải trở thành dân tộc, không phải ở mức độ là “hình thức của cuộc đấu tranh giai cấp” mà cần được coi là bản chất của Đảng! Nhiệm vụ chính trị hàng đầu của Đảng là phải giải quyết hài hòa lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc. Thậm chí, hiện nay với một số đảng cầm quyền, không bảo vệ được chủ quyền, lợi ích của quốc gia dân tộc là đồng nghĩa với “tự sát” về chính trị.

C.Mác chỉ nêu nguyên tắc rằng: “Chủ nghĩa quốc tế của giai cấp vô sản không chỉ thể hiện bằng tinh thần, lời nói, “tình hữu nghị” suông…mà phải có “chức năng quốc tế” phải có sự phối hợp hành động thực tế.”(9). Song C.Mác cũng không có điều kiện thực tế để chiêm nghiệm chủ nghĩa quốc tế trong bối cảnh chính trị phức tạp hiện nay. Và hiển nhiên là, cùng với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, sẽ xuất hiện “những hình thức tập hợp lực lượng mới.”(11) 

Về những điều kiện để xây dựng chủ nghĩa xã hội

Điều kiện khách quan cho chủ nghĩa xã hội và phát triển rút ngắn

Khi nghiên cứu về triển vọng phát triển của chủ nghĩa cộng sản, C.Mác trừu tượng hóa hình thái tư bản chủ nghĩa như là hình thái duy nhất và quan hệ sản xuất thống trị kiểu tư bản chủ nghĩa đã phát triển đến giai đoạn tới hạn của nó. Tình thế của cách mạng xã hội chủ nghĩa, cũng theo dự kiến của C.Mác là sẽ diễn ra ở một loạt các nước tư bản phát triển trình độ cao. Mác cũng dự kiến đến kiểu phát triển rút ngắn, rằng đối với một số quốc gia, với những điều kiện nhất định, có thể bỏ qua hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa để xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Nhưng cách mạng xã hội chủ nghĩa ở thế kỷ XX đã không nổ ra ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển, nơi mà lực lượng sản xuất xã hội hóa ở mức cao, nơi quan hệ sản xuất tư nhân tư bản chủ nghĩa bộc lộ rõ tính bất cập của nó. Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở thế kỷ XX đã chủ yếu diễn ra thông qua các cuộc cách mạng “kép”: từ cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới và từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nó diễn ra ở những nước mà quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa mới chỉ manh nha hoặc phát triển ở giai đoạn đầu.

Các cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở thế kỷ XX là theo phương thức phát triển rút ngắn. Trên thực tế, chủ nghĩa xã hội hiện thực đã được xây dựng không phải là kết quả của sự phủ định trực tiếp chủ nghĩa tư bản. Nó được thực hiện ở những nước chủ nghĩa tư bản kém phát triển hoặc chưa qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Có nhiều nước đi lên chủ nghĩa xã hội từ tình trạng kinh tế lạc hậu, trạng thái chính trị còn chế độ phong kiến hoặc thực dân nửa phong kiến. Thành công ban đầu của việc xác lập quyền lực chính trị, cùng với những hạn chế trong nhận thức về tính chất khó khăn, phức tạp và lâu dài của cách mạng xã hội chủ nghĩa đã như là những tác nhân làm nảy sinh tư tưởng duy ý chí và sai lầm trong cách phát triển rút ngắn.

Cải cách, đổi mới đã xác nhận nhận thức mới với trường hợp phát triển rút ngắn là, không phải bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa hay toàn bộ hình thái kinh tế xã hội tư bản chủ nghĩa mà chỉ bỏ qua từng phần (ở Việt Nam là bỏ qua việc xác lập chế độ tư bản chủ nghĩa). Không phải tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội mà là tiến lên chủ nghĩa xã hội thông qua việc vận dụng những công cụ mà chủ nghĩa tư bản đã sử dụng để phát triển, như kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền và có thể còn là một số vấn đề khác nữa… Bản chất của nhận thức mới về kiểu phát triển rút ngắn để đi lên chủ nghĩa xã hội là vừa làm rõ tính chất khách quan - lịch sử tự nhiên của sự phát triển, vừa làm rõ tính chất chủ động lựa chọn để bỏ qua những gì và không bỏ qua những gì từ giai đoạn văn minh tư bản chủ nghĩa.

Về vai trò của nhân tố chủ quan trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội

Trong bối cảnh hiện nay, có nhiều điểm cần được bổ sung, phát triển lý luận về Đảng Cộng sản - nhân tố chủ quan quan trọng nhất trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. “Việc tổ chức giai cấp công nhân thành một chính đảng là cần thiết để bảo đảm thắng lợi của cách mạng xã hội và giành được mục đích cuối cùng của nó là thủ tiêu các giai cấp". (12)

C.Mác tin tưởng ở sự phát triển mạnh mẽ, tất yếu của chính đảng vô sản trong quá trình cách mạng. Ông cũng tin tưởng vào sự phát triển của các Đảng thông qua đấu tranh giai cấp và đấu tranh tư tưởng trong nội bộ để giữ vững lập trường của một đảng chân chính của giai cấp công nhân. Nhưng C.Mác chưa có điều kiện lịch sử để nghiên cứu về những bất cập, hạn chế của các Đảng khi cầm quyền như quan liêu, tham nhũng, thao túng quyền lực và xa rời lập trường của giai cấp công nhân. Ông cho rằng “Những người cộng sản không phải là một đảng riêng biệt, đối lập với các đảng công nhân khác. Họ tuyệt nhiên không có một lợi ích nào khác tách khỏi lợi ích của toàn thể giai cấp vô sản” (13). C.Mác cũng chưa lường trước được xung đột về quan điểm chính trị, bất đồng về tư tưởng, phân liệt về tổ chức giữa các Đảng, các nước xã hội chủ nghĩa là có thể diễn ra và gây hại cho sự đoàn kết quốc tế và sự phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội. C.Mác chưa có điều kiện để nói về suy thoái chính trị - tư tưởng và đạo đức của một Đảng cộng sản cầm quyền. Ông cũng không có điều kiện lịch sử để chứng kiến sự biến dạng lý luận và tư tưởng trong một Đảng Cộng sản là như thế nào. Sự suy thoái ấy có thể làm biến dạng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, làm cho chính những người xây dựng chủ nghĩa xã hội cũng mắc phải các căn bệnh kiêu ngạo, chủ quan, duy ý chí, quan liêu và tham nhũng... Trong nhận thức hiện đại, suy thoái chính trị, tư tưởng của một đảng cộng sản cầm quyền và sự suy yếu của chủ nghĩa quốc tế vô sản là nguy cơ lớn nhất đối với triển vọng của chủ nghĩa xã hội.

C.Mác tin rằng: “Về mặt thực tiễn, những người cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất trong các đảng công nhân ở tất cả các nước, là bộ phận luôn luôn thúc đẩy phong trào tiến lên, về mặt lý luận, họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ là họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản” (14). Nhưng C.Mác không có điều kiện thực tế để thấy rằng, đôi khi do cơ chế tổ chức và hoạt động, Đảng đã lựa chọn lầm những nhân vật không tiêu biểu cho cả thực tiễn, và cả lý luận, không đại biểu trung thành cho lợi ích giai cấp công nhân. Họ có thể lợi dụng sự “xơ cứng” của cơ chế tập trung dân chủ trong bầu cử để làm biến dạng dân chủ trong đảng. Cơ chế làm tha hóa con người, con người làm tha hóa tổ chức và chế độ là điều có thật!

 *** 

Những nhận định của C.Mác về các vấn đề liên quan tới sự ra đời của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản dù sao cũng là những dự báo. Sinh thời, chính bản thân C.Mác và Ph.Ăngghen cũng đã nhiều lần điều chỉnh các nhận định của mình và khuyên hậu thế nên có tinh thần tiếp thu có phê phán khi đến với học thuyết của các ông. Phát hiện ra những điểm cần bổ sung điều chỉnh không phải là để phủ nhận lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học mà là để tiếp tục hiện thực hóa nó một cách có lý trí trong điều kiện hiện nay.

Bổ sung những nhận thức mới phù hợp với bối cảnh mới là yêu cầu tự nhiên của sự phát triển học thuyết Mác, theo đúng tinh thần khoa học và cách mạng của nó./.

----------------------------------------- 

Tài liệu tham khảo: 

(1). P.Druke - Thời đại biến đổi xã hội, bản dịch của Nguyễn Quang A, website Văn hóa Nghệ An 

(2). C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tập 4, tr. 600 

(3). P.Druke - Sđd, bản dịch của Nguyễn Quang A, website Văn hóa Nghệ An 

(4). C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tập 2, tr.485 

(5). Ngày dân số Thế giới 11-7: Hơn một nửa dân số sống ở đô thị, Báo Tin tức điện tử, ngày 11-7-2014 

(6). Xem thêm “Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” GS,TS. Nguyễn Kế Tuấn (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010. các trang: tr.51, tr.87-88, tr.292 … 

(7). C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tập 4, tr. 614 

(8). Xem thêm: PGS,TS Nguyễn An Ninh, Về chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân hiện nay, Tạp chí Cộng sản, số 859, 5/2014 

(9) . C.Mác, Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 4. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995, tr 484 

(10) Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trả lời báo chí quốc tế tại Philippines về tình hình Biển Đông, Bản tin TTXVN, 22-5-2014. 

(11). Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 12 

(12). C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tập 4, tr.484 

(13). C. Mác và Ph, Ăngghen: Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995, tr. 614 

(14). C. Mác và Ph, Ăngghen: Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội - 1995, tr. 614 

PGS, TS. Nguyễn An Ninh

Viện CNXH khoa học, Học viện Chính trị quốc gia

(Theo TCCS)