Không có quốc gia nào trên thế giới công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa. Việc Trung Quốc nói nước này có chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam là hoàn toàn không có cơ sở pháp lý.
Ông Trần Duy Hải, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Biên giới quốc gia, khẳng định điều này trong cuộc họp báo quốc tế về tình hình Biển Đông do Bộ Ngoại giao tổ chức vào chiều 23/5.
Tại họp báo, đại diện Bộ Ngoại giao khẳng định Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Trao đổi với báo giới, ông Trần Duy Hải, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Biên giới quốc gia, cho biết: Từ nhiều thế kỷ nay, ít nhất là từ thế kỷ 17, Việt Nam đã xác lập, thực thi chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa khi hai quần đảo này còn vô chủ. Các triều đại phong kiến Việt Nam đã thực thi chủ quyền đối với hai quần đảo một cách hòa bình, liên tục, phù hợp với luật pháp quốc tế mà không gặp phải sự phản đối của bất cứ quốc gia nào.
Thời kỳ Pháp thuộc, cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20, Chính phủ Pháp đã nhân danh Việt Nam tiếp tục quản lý hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đồng thời phản đối yêu sách của các nước khác đối với 2 quần đảo này.
Theo ông Trần Duy Hải, chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cũng đã được thừa nhận tại Hội nghị San Francisco - Hội nghị này giải quyết vấn đề quy thuộc các vùng lãnh thổ sau Chiến tranh thế giới thứ hai với sự tham gia của 51 quốc gia, vào tháng tháng 9/1951.
Tại Hội nghị này, Trưởng phái đoàn Quốc gia Việt Nam, Thủ tướng Chính phủ Bảo Đại Trần Văn Hữu đã khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà không gặp bất cứ sự phản đối nào của 50 quốc gia tham dự còn lại. Trong khi đó, đề xuất của đoàn Liên Xô trao chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc đã bị đa số đại biểu trong Hội nghị phản đối với tỷ lệ số phiếu chống gần như tuyệt đối.
Sau khi ký kết Hiệp định Genèva năm 1954, Pháp đã chuyển giao hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Việt Nam Cộng hòa đã chiếm hữu trên thực tế và thực thi chủ quyền đối với hai quần đảo này. Việt Nam Cộng hòa đã tuyên bố khẳng định chủ quyền và có các hành vi thực hiện chủ quyền đối với hai quần đảo này. Trung Quốc là một trong những nước tham gia Hội nghị quốc tế về Đông Dương tại Genèva năm 1954 đã biết rất rõ điều này và Trung Quốc có trách nhiệm tôn trọng các văn kiện quốc tế của Hội nghị đó.
Sau năm 1975, nước Việt Nam thống nhất, Nhà nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam quản lý các đảo ở Trường Sa và liên tiếp khẳng định chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa.
Theo luật pháp quốc tế đương thời về thụ đắc lãnh thổ, một quốc gia được coi là có chủ quyền đối với một vùng lãnh thổ khi quốc gia đó chứng minh được mình đã chiếm hữu, thực thi, quản lý và khai thác lãnh thổ đó với tư cách Nhà nước một cách liên tục, hòa bình. Theo đó, Việt Nam đã xác lập, thực thi chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa hoàn toàn phù hợp với các quy định của luật pháp quốc tế.
Quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam đã bị Trung Quốc đánh chiếm bằng vũ lực vào các năm 1956 và 1974. Việt Nam Cộng hòa và Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam đều đã lên tiếng phản đối hành động trên của Trung Quốc và khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa. Bên cạnh đó, một số bãi ngầm ở quần đảo Trường Sa của Việt Nam bị Trung Quốc đánh chiếm bằng vũ lực vào năm 1988.
Từ góc độ của luật pháp quốc tế, việc chiếm đóng bằng vũ lực lãnh thổ của một quốc gia có chủ quyền là hành vi phi pháp và không thể đem lại chủ quyền cho Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa.
Bản thân Bị vong lục ngày 12/5/1988 của Trung Quốc - một văn bản chính thức của Bộ Ngoại giao Trung Quốc - cũng khẳng định rõ một nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế là “xâm lược không thể sinh ra chủ quyền” đối với một vùng lãnh thổ.
Ông Hải khẳng định không có quốc gia nào trên thế giới công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với đảo Hoàng Sa và việc Trung Quốc nói nước này có chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam là hoàn toàn không có cơ sở pháp lý.
Công thư 1958 không đề cập đến lãnh thổ, chủ quyền
Về việc Trung Quốc cho rằng Việt Nam đã thừa nhận một cách chính thức chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa và viện dẫn sai lệch Công thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958, ông Trần Duy Hải khẳng định Công thư hoàn toàn không đề cập đến vấn đề lãnh thổ và chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà chỉ ghi nhận và tán thành việc Trung Quốc mở rộng lãnh hải ra 12 hải lý, đồng thời chỉ thị cho các cơ quan của Việt Nam tôn trọng giới hạn 12 hải lý mà Trung Quốc tuyên bố.
Mặt khác, Công thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng không đề cập đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa phù hợp với thực tế lúc đó là hai quần đảo này nằm dưới vĩ tuyến 17, thuộc quyền quản lý của Việt Nam Cộng hòa và được Pháp chuyển giao trên thực tế theo Hiệp định Geneva năm 1954 mà Trung Quốc cũng là một bên tham gia.
Trung Quốc cũng tỏ ra mâu thuẫn khi gần đây luôn nói rằng Hoàng Sa không có tranh chấp, đi ngược lại với chính quan điểm của lãnh đạo cấp cao nước này. Theo ông Hải, ngày 24/9/1975, trong trao đổi với Bí thư thứ nhất Đảng Lao động Việt Nam Lê Duẩn, Phó Thủ tướng Trung Quốc Đặng Tiểu Bình đã thừa nhận giữa hai nước có tranh chấp về hai quần đảo và hai bên “có thể bàn bạc với nhau”.
Ý kiến của ông Đặng Tiểu Bình cũng được ghi lại trong Bị vong lục của Bộ Ngoại giao Trung Quốc ngày 12/5/1988 đăng trên Nhân dân Nhật Báo, ông Trần Duy Hải cho hay.
(nguồn Chinhphu.vn)