[In trang]
Tiến trình nào để người lao động được “Quyền lợi bảo vệ - An sinh bảo đảm - Phúc lợi tốt hơn”
Thứ tư, 08/06/2016 - 08:01
Công đoàn các cấp cần thường xuyên bám cơ sở, nắm bắt diễn biến tư tưởng, tâm tư, nguyện vọng của người lao động

An sinh xã hội và phúc lợi xã hội là hệ thống các chính sách và giải pháp nhằm bảo vệ mức sống tối thiểu của người dân trước những rủi ro và tác động bất thường về kinh tế, xã hội và môi trường và không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.

Ảnh minh họa

Tổng quan về an sinh xã hội và phúc lợi xã hội

Bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội không chỉ là bảo vệ quyền của mỗi người dân như đã nêu trong Tuyên ngôn thế giới về quyền con người, mà còn là một nhiệm vụ quan trọng của mỗi quốc gia trong quá trình phát triển và ở Việt Nam cũng không phải là một ngoại lệ. Do đó, bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội là thước đo của sự phát triển kinh tế xã hội. Trong Hiến pháp năm 2013 đã có nhiều điểm mới, đặc biệt là Chương II “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” là một chương có số lượng điều nhiều nhất trong Hiến pháp với 36 điều, đây là điểm nổi bật của Hiến pháp năm 2013, coi con người là chủ thể, động lực, mục tiêu của sự phát triển.

Bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội là một chức năng, nhiệm vụ chủ yếu của Nhà nước và là quyền lợi, trách nhiệm của toàn xã hội. Thông qua hệ thống các cơ chế chính sách và nguồn lực, Nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo trong việc bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội cho nhân dân và thực hiện tốt chính sách phân phối thu nhập quốc dân, phân bổ hợp lý và sử dụng hiệu quả nguồn lực để bảo đảm các yêu cầu cơ bản về an sinh xã hội và phúc lợi xã hội. Qua đó cho thấy sự cần thiết khi gắn mục tiêu an sinh bảo đảm, phúc lợi tốt hơn vào mục tiêu chung của quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, điều đó có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự ổn định chính trị xã hội và phát triển bền vững của đất nước

Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhấn mạnh và tập trung vào việc chăm lo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, giải quyết tốt những vấn đề bức thiết; tăng cường quản lý phát triển xã hội, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người; bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao phúc lợi xã hội và giảm nghèo bền vững. Tổ chức lao động quốc tế ILO cũng đã nhận định, không có một mô hình chuẩn nào trong việc thiết lập hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, vấn đề quan trọng là sự phù hợp của nó đối với điều kiện và mục đích phát triển của từng quốc gia. Như vậy, mục tiêu an sinh bảo đảm và của phúc lợi tốt hơn đối với người dân là Đảng, Nhà nước, các tổ chức, cá nhân, đơn vị, doanh nghiệp “luôn hành động và hướng vào những mục tiêu cụ thể” để không ngừng nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho người dân, người lao động. Đó sẽ là là tiến trình biến đổi xã hội được kiến tạo nhằm thúc đẩy sự thịnh vượng của người dân cũng như toàn xã hội trong mối liên kết chặt chẽ, tương thích với một tiến trình phát triển kinh tế năng động; đồng thời, hướng đến kiến tạo các nguồn lực cho cộng đồng thông qua việc gắn kết những hình thức phát triển xã hội với kinh tế.

Có một quan điểm cho rằng, không thể hiểu một cách đơn giản là có sự tăng trưởng kinh tế là đảm bảo được an sinh xã hội, phúc lợi xã hội và công bằng xã hội hoặc đợi đến khi có kinh tế mới phát triển xã hội. Bởi lẽ, trong cơ chế thị trường do yếu tố lợi nhuận chi phối, cho nên sẽ ảnh hưởng ít nhiều đến phúc lợi xã hội. Sự phát triển của kinh tế thị trường là điều tất yếu của sự phát triển nhưng để cân bằng giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội thì nhà nước phải điều tiết, điều chính bằng pháp luật, bằng cơ chế chính sách những vấn đề mang tính mặt trái của kinh tế thị trường. Cũng không nên cho rằng chỉ cần thực hiện tốt các chính sách phát triển kinh tế là các vấn đề xã hội sẽ tự khắc được giải quyết và cũng không nên quan niệm các doanh nghiệp chỉ tập trung làm kinh tế, còn việc giải quyết các vấn đề xã hội thuộc chức năng nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước và an sinh xã hội và phúc lợi xã hội không chỉ là vấn đề của riêng ai.

Tài sản thực sự của một quốc gia là con người và mục đích của phát triển là tạo môi trường cho phép người dân được hưởng thụ một cuộc sống mạnh khỏe, sáng tạo, có cơ hội để phát triển và tuổi thọ cao.Tăng trưởng kinh tế kết hợp hài hoà với tiến bộ và công bằng xã hội, nâng cao không ngừng chất lượng cuộc sống của nhân dân; phát triển hệ thống an sinh xã hội đa dạng, ngày càng mở rộng và hiệu quả, tạo cơ hội bình đẳng cho mọi người hưởng thụ các dịch vụ cơ bản, các phúc lợi xã hội.

Nếu như an sinh xã hội tập trung vào việc giúp đỡ con người vượt qua khó khăn thách thức thì phúc lợi xã hội phải điều chỉnh những lợi ích của các nhóm, các cộng đồng người. thông quan sự phân phối lại để người dân có được các điều kiện phát triển, công bằng xã hội về các hội được hưởng thụ văn hóa, dịch vụ xã hội. Phúc lợi xã hội tốt hơn là thể hiện được lợi ích toàn dân của chế độ xã hội chủ nghĩa. Trong tương lai, để mục tiêu nhà nước với đầy đủ tính chất của dân, do dân, vì dân thông qua chế độ phúc lợi xã hội, mà qua đó hướng tới sự phân phối phải công bằng theo nguyên tắc có làm có hưởng, làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không có người nghèo không có lợi ích nhóm và chỉ có lợi ích toàn xã hội. Cùng với đó, Nhà nước tạo sự biến đổi thông qua tương tác, kiến tạo xã hội để tất cả các tập thể, cá nhân, doanh nghiệp, đơn vị liên quan thực thi qua thiết chế được lập kế hoạch nhằm đem lại sự phù hợp tốt hơn giữa những nhu cầu xã hội và sự khát vọng thông qua chính sách và chương trình xã hội. Đó là một hệ thống an sinh xã hội đa tầng và phúc lợi xã hội tích cực rộng mở nhằm cung cấp cơ hội đối với người dân một cuộc sống tốt đẹp hơn. Điều đó đặt người dân vào trung tâm của sự phát triển, xem xét tăng trưởng kinh tế như là phương tiện chứ không phải là mục đích, đẩy mạnh chăm lo đời sống cho người dân và thế hệ tương lại trong sự phát triển bền vững.

Sự cần thiết của an sinh xã hội và phúc lợi xã hội đối với người lao động

Năm 2015, dân số Việt Nam ước khoảng 91,7 triệu người đứng thứ 13 trên thế giới, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của cả nước là 54,6 triệu người. Lực lượng lao động trong độ tuổi lao động ước tính 47,8 triệu người, với mức thu nhập bình quân đầu người năm 2015 ước đạt 45,7 triệu đồng (tương đương 2109 USD). Với lực lượng lao động trẻ, dồi dào và tiếp tục tăng sẽ là nguồn lực quan trọng cho việc phát triển kinh tế, mang lại giá trị tích lũy lớn, là yếu tố quyết định sự phát triển bền vững của đất nước; cùng với những thuận lợi mới là thách thức đan xen trong điều kiện bảo đảm việc làm, cải thiện năng suất lao động và thúc đẩy giá trị lao động; bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội cho người lao động là một quá trình liên tục, lâu dài, bền bỉ có định hướng, có kế hoạch.

Trước hết cần khẳng định, trong nền sản xuất bất kỳ của xã hội nào cũng không thể không có sức lao động. Lao động là hoạt động quan trọng nhất của con người và cũng chính lao động tạo ra của cải vật chất và các giá trị tinh thần cho xã hội; đảm bảo việc làm và tăng năng suất lao động là nguồn gốc của phát triển kinh tế xã hội. Lao động là phạm trù chỉ khả năng lao động của con người, là tổng hợp thể lực và trí lực của con người được con người vận dụng trong quá trình lao động. Điều đó đặt ra vấn đề và yêu cầu lớn về an sinh xã hội đối với người lao động. An sinh xã hội giữ vai trò cần thiết đối với người lao động trong độ tuổi lao động bảo đảm ổn định thu nhập, để phòng ngừa nguy cơ rủi ro, biến cố gặp phải như bị thất nghiệp, tai nạn lao động, ốm đau, thai sản để bảo đảm cho họ một mức thu nhập tối thiểu, có một tích lũy nhất định để vượt qua khó khăn, từng bước phát triển.

Trong khi thị trường lao động là nguồn chính đảm bảo an ninh thu nhập trong suốt thời gian làm việc của cá nhân, thì an sinh xã hội và phúc lợi can thiệp, hỗ trợ, chia sẻ bằng cách duy trì ổn định thu nhập của người lao động và gia đình họ. Qua đó góp phần tạo điều kiện cho quá trình chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế và mô hình tăng trưởng, cùng với đó là bảo đảm an ninh thu nhập, an sinh xã hội cho người lao động và gia đình họ trong trường hợp thất nghiệp tạm thời qua thực hiện độ bao phủ của bảo hiểm y tế, tăng tỉ lệ tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động. Bên cạnh đó, cần mở rộng chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện để lao động di cư phi chính thức có thể tham gia đóng và hưởng quyền lợi giống như bảo hiểm xã hội bắt buộc (thai sản, ốm đau, tai nạn lao động). Đồng thời có sự hỗ trợ, giúp đỡ, chia sẻ của nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân đối với các nhóm yếu thế, các hoàn cảnh khó khăn cần sự trợ giúp.

Bên cạnh đó, lao động còn có vai trò đặc biệt hơn các yếu tố khác vì vấn đề lao động có vai trò hai mặt. Đầu tiên lao động là một nguồn lực sản xuất chính và không thể thiếu được trong các hoạt động kinh tế. Do đó, với vai trò này lao động được xem xét ở cả hai khía cạnh, đó là “chi phí” và “lợi ích”. Lao động là yếu tố đầu vào, nó có ảnh hưởng tới chi phí tương tự như việc sử dụng các yếu tố khác. Vì vậy, lao động cũng bao hàm những lợi ích tiềm tàng góp phần tăng thu nhập, cải thiện đời sống, giảm đói nghèo. Để quyền lợi người lao động được bảo đảm và phúc lợi tốt hơn tại nhiều doanh nghiệp là điều không dễ dàng, thường có hai vấn đề xảy ra “không có chi phí, kinh phí" hay "không có thời gian để làm việc đó".Vai trò lao động cũng còn được thể hiện ở khía cạnh thứ hai đó lao động - một bộ phận của dân số, là người được hưởng thụ lợi ích của quá trình phát triển. Để người người lao động có các cơ hội trở thành lao động sáng tạo, có năng suất, được tôn trọng cá nhân và được đảm bảo quyền con người. Như vậy, việc phát triển có hai mặt một mặt là sự hình thành các năng lực con người và mặt khác là việc sử dụng các năng lực của con người đã tích lũy được cho các hoạt động kinh tế, giải trí hoặc các hoạt động văn hóa, xã hội, chính trị. Và như vậy thì thu nhập không phải là tất cả cuộc sống của người lao động mà còn hướng tới mục đích của phát triển bền vững là mở rộng mọi sự lựa chọn, cơ hội phát triển của người lao động chứ không phải đơn thuần là thu nhập. Do đó cần đẩy mạnh an sinh xã hội và phúc lợi xã hội đối với người lao động một cách toàn diện, đồng bộ và hiệu quả thiết thực hơn nữa.

Một số tồn tại, hạn chế đối với người lao động

Nguồn lực cho an sinh xã hội và phúc lợi xã hội còn hạn chế, chủ yếu dựa vào ngân sách nhà nước, với diện bao phủ và mức hỗ trợ còn thấp. Các hình thức bảo hiểm chưa đáp ứng được nhu cầu đa dạng của người dân; chất lượng các dịch vụ nhìn chung còn thấp. Chưa hình thành được hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi xã hội rộng khắp, chưa huy động được mạnh mẽ sự tham gia của toàn xã hội vào công tác bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội. Một bộ phận không nhỏ người lao động chưa có nghề hoặc thiếu kỹ năng lao động, đang làm những công việc chưa thật ổn định với tiền lương, thu nhập thấp và an sinh xã hội hạn chế; gặp những biến cố, rủi ro, áp lực cạnh tranh của nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng; bị tác động ảnh hưởng tiêu cực của biến đổi khí hậu, thiên tai.

Với những đặc trưng cơ bản của các nước đang phát triển của nước ta nên với mức thu nhập bình quân đầu người ở mức rất khiêm tốn và điều kiện sống của người lao động còn gặp nhiều khó khăn như thu nhập thấp, cuộc sống bấp bênh, thiếu nhà ở, người lao động nhập cư tại các khu công nghiệp phải thuê nhà trọ, điều kiện sống không đảm, nơi trông giữ trẻ gặp nhiều khó khăn, cơ hội được học hành, nâng cao trình độ cũng hạn chế; tỉ lệ tích lũy thấp do điều hiển nhiên là nguồn vốn tích lũy cần hy sinh cho tiêu dùng..

Để quyền lợi của người lao động được bảo vệ

Trước hết, Đảng và Nhà nước cần duy trì một xã hội thượng tôn pháp luật với hệ thống các thiết chế, tạo khuôn khổ pháp lý bảo vệ người lao động. Cùng với đó là giám sát hữu hiệu trong thực tế khi thực thi, triển khai các quy định của pháp luật vào trong thực tiễn của các thành phần liên quan. Tất cả các tập thể, cá nhân đều phải bình đẳng trước pháp luật, đồng thời các quy định phải được tuân thủ và thực thi, thực hiện nghiêm túc. Phải quy định rõ trách nhiệm đến cùng của cơ quan quản lý, người sử dụng lao động, người lao động để tránh các trường hợp quyền lợi của các tập thể, cá nhân ở mức tối đa mà trách nhiệm thì ở mức tối thiểu, làm sao pháp luật được thực thi và triển khai trong thực tế một cách nghiêm túc, đầy đủ.

Quan điểm tổng thể về an sinh xã hội và phúc lợi đó là nhấn mạnh đến sự đồng nhất chứ không nhấn mạnh đến sự khác biệt với chương trình, mục tiêu tổng thể, toàn diện, hướng vào các mục tiêu cụ thể và điều kiện triển khai trong thực tế, phù hợp với xu thế phát triển. Nhất là khi đất nước ta ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới và các hiệp định thương mại tự do toàn cầu, với những tiêu chuẩn, cam kết cao hơn về tiêu chuẩn lao động, quy định về xã hội và môi trường, sự sự gắn kết với cộng đồng, bảo vệ môi trường, bảo vệ sức khỏe người lao động.

Sự quyết tâm cao và cam kết của Đảng, Nhà nước, doanh nghiệp đối với công tác an sinh xã hội và phúc lợi xã hội cho người lao động

Đảng và Nhà nước luôn xác định việc phát triển kinh tế là cơ sở quan trọng để bảo đảm tốt hơn an sinh xã hội và phúc lợi xã hội. Chính vì vậy, cần có nhận thức mới, đầy đủ hơn về an sinh xã hội và phúc lợi xã hội, phát huy thành quả và những kinh nghiệm tốt đã đạt được, khắc phục những yếu kém bất cập để xây dựng một hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi xã hội đồng bộ, hiệu quả cao.Trước hết, cần khẳng định bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội là một chức năng, nhiệm vụ chủ yếu của Nhà nước và là quyền lợi, trách nhiệm của toàn xã hội. Hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi xã hội phải bảo đảm chủ động, tích cực và có tính xã hội hoá cao. Xây dựng một hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi xã hội đa tầng, linh hoạt, bền vững, có thể hỗ trợ lẫn nhau, công bằng về trách nhiệm và lợi ích, chia sẻ rủi ro, hướng tới bao phủ toàn dân, tập trung hỗ trợ cho những người lao động gặp hoàn cảnh khó khăn. Bảo đảm hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, trợ cấp xã hội, trợ cấp, ưu đãi xã hội. Bên cạnh đó Nhà nước cần can thiệp những vấn đề mang tính hệ quả, khuyết tật, mặt trái của nền kinh tế thị trường như chênh lệch.

Ngoài những quy định của pháp luật, cùng cần đề cao trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đối với người lao động. Người sử dụng lao động, chủ doanh nghiệp, những doanh nhân có tài có đức, đã và đang tạo công ăn việc làm cho người lao động, có những đóng góp cho cộng đồng và cho xã hội. Để hướng tới việc chăm lo đời sống của người lao động cũng cần đề cao trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Cùng với đó là văn hóa doanh nhân, doanh nghiệp, của người sử dụng lao động với những hành động cụ thể, thiết thực hỗ trợ, quan tâm tới người lao động như chính người thân trong gia đình của mình và có đóng góp với cộng đồng và xã hội.

Hoạt động công đoàn cần đổi mới mạnh mẽ và hành động quyết liệt vì người lao động

Tại hội nghị Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam lần thứ 7 (Khóa XI) đã đề một số nhiệm vụ trọng tâm để triển khai tổ chức thực hiện đó là:

- Các cấp công đoàn cần tập trung tuyên truyền về các văn kiện và Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng, đồng thời xây dựng chương trình hành động thực hiện Nghị quyết gắn với thực hiện Kết luận số 79 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết 20 Hội nghị Trung ương 6 (khóa X) về “Tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”, phát động phong trào thi đua một cách thiết thực, tạo sự chuyển biến về chất phù hợp với từng loại hình tổ chức.

- Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam đã thống nhất lấy chủ đề của năm 2016 là “Năm phát triển đoàn viên”. Để hiện thực hóa chủ đề đó, trong bối cảnh tình hình khó khăn như dự báo, yêu cầu đặt ra với tổ chức công đoàn các cấp cần nỗ lực, đẩy mạnh thực hiện nhiệm vụ phát triển đoàn viên, thành lập công đoàn cơ sở gắn với đổi mới nội dung, phương thức hoạt động công đoàn.

- Tập trung nghiên cứu và tham gia hoàn thiện các chủ trương, chính sách, pháp luật có liên quan trực tiếp đến đoàn viên và người lao động đặc biệt là các nội dung liên quan đến hoạt động công đoàn trong hội nhập quốc tế. Đồng thời phối hợp với các cơ quan chức năng tăng cường các hoạt động kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật lao động, Luật Công đoàn và các Nghị định, thông tư liên quan đến người lao động tại các đơn vị, doanh nghiệp.

- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật, tăng cường các hoạt động nâng cao nhận thức, tuyên truyền, giáo dục, cung cấp thông tin về chính sách pháp luật, văn hóa, nếp sống văn hóa. các quyền lợi liên quan trực tiếp đến người lao động cũng như kỹ năng sống, trợ giúp kết nối giúp người lao động nhập cư hòa nhập cộng đồng, tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản; trợ giúp pháp lý, xây dựng mô địa chỉ tin cậy ở cộng đồng. Đồng thời mở đợt tuyên truyền vận động rộng lớn đến tất cả mọi người lao động, đến người chủ, người sử dụng lao động về Nghị quyết của Tổng Liên đoàn về “Chất lượng bữa ăn ca của người lao động”.

- Thực hiện nghiêm túc về công tác tài chính công đoàn trong tình hình mới tới các cấp công đoàn, có giải pháp chống thất thu kinh phí công đoàn nhất là ở khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước, doanh nghiệp chưa có tổ chức công đoàn. Kiên quyết chống mọi biểu hiện lãng phí, chi không đúng mục đích, thực hiện nghiêm việc công khai tài chính, thực hành tiết kiệm; tăng cường công tác kiểm tra toàn diện, chú trọng kiểm tra thực hiện Điều lệ Công đoàn Việt Nam.

- Công đoàn các cấp cần thường xuyên bám cơ sở, nắm bắt diễn biến tư tưởng, tâm tư, nguyện vọng của người lao động nhất là vấn đề tiền lương, thu nhập. Đặc biệt, tại các doanh nghiệp gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp có chủ bỏ trốn để kịp thời kiến nghị giải quyết; đồng thời cần quan tâm chăm lo đến những đối tượng công nhân, lao động thuộc diện chính sách, có hoàn cảnh khó khăn. Mỗi cán bộ công đoàn và ban chấp hành công đoàn phải luôn gắn kết chặt chẽ, thân thiết với đoàn viên và người lao động, phải biết tường tận đời sống người lao động, phải xác định đúng tâm tư nguyện vọng của người lao động, những nhu cầu thực sự của đoàn viên. Để từ đó có những giải pháp phù hợp nhằm thực hiện tốt việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của người lao động, không ngừng bảo đảm an sinh và phúc lợi tốt hơn cho người lao động.

Người lao động cần nỗ lực không ngừng để tự hoàn thiện mình

Số lượng lao động mới phản ánh được một mặt sự đóng góp của lao động vào tăng trưởng kinh tế, mặt khác điều đó cũng thể hiện sự đóng góp của lao động được đánh giá ở chất lượng của lao động. Chất lượng của lao động là yếu tố ảnh hưởng mạnh đến năng suất lao động, đến sự chuyển đổi cơ cấu việc làm theo trình độ kỹ thuật. Chất lượng của lao động được đánh giá qua trình độ học vấn, chuyên môn và kỹ năng lao động cũng như sức khỏe. Điều này lại phụ thuộc và hoạt động giáo dục đào tạo, dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe, giáo dục là cách thức để tăng tích lũy vốn con người đặc biệt là tri thức và sẽ giúp cho việc sáng tạo ra công nghệ mới, tiếp thu công nghệ mới do đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế dài hạn, sức khỏe tốt có tác động tới chất lượng lao động cả hiện tại và tương lai.

Khi an sinh được bảo đảm, phúc lợi tốt hơn, người lao động có sức khỏe tốt sẽ mang lại những lợi nhuận trực tiếp hoặc gián tiếp bằng việc nâng cao sức bền bỉ, dẻo dai và khả năng tập trung cao trong khi làm việc. Điều đó sẽ tạo tác phong công nghiệp, tính kỷ luật, tính nhịp nhàng, tính hiệu quả, tinh thần chủ động sáng tạo, thái độ hợp tác và tính kỷ luật chặt chẽ, đa năng, linh hoạt hơn. Và mục tiêu cuối cùng cũng như quan trọng nhất là sự ổn định, hài hòa trong ý thức và hành động mà trong đó mọi người đều có mình  trong thành quả của sự phát triển. Bên cạnh đó, xuất phát từ thực tiễn và nảy sinh từ thực tế, người lao động luôn cần tìm tòi, phát huy sức sáng tạo để có những sáng kiến, nghiên cứu, với tinh thần hăng say với công việc, lòng yêu ngành, yêu nghề, yêu đơn vị doanh nghiệp của mình để có nhiều sáng kiến sáng tạo, với các phương án cải thiện điều kiện làm việc để giúp tăng năng suất lao động, tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả kinh doanh,cải thiện, đảm bảo sức khỏe cho người lao động qua đó đóng góp vào sự phát triển bền vững của đơn vị, doanh nghiệp và đất nước.

 Trần Phong  (tổng hợp)