[In trang]
Phân biệt giữa trợ cấp thôi việc và trợ cấp mất việc
Thứ ba, 28/07/2015 - 13:48
Việc hiểu không đúng bản chất của 2 khoản trợ cấp này, cũng như việc người sử dụng lao động (NSDLĐ) vận dụng pháp luật chưa đúng, gây ra những bức xúc không đáng có của NLĐ

Thời gian qua, Văn phòng Tư vấn pháp luật Công đoàn Công Thương Việt Nam (TVPL CĐCTVN) nhận được một số ý kiến của người lao động (NLĐ) liên quan đến 2 khoản trợ cấp thôi việc và trợ cấp mất việc. Việc hiểu không đúng bản chất của 2 khoản trợ cấp này cũng như việc người sử dụng lao động (NSDLĐ) vận dụng pháp luật chưa đúng đã gây ra những bức xúc không đáng có của NLĐ.

Tiếp theo tư vấn “Trường hợp nào người sử dụng lao động có trách nhiệm chi trả trợ cấp thôi việc cho người lao động” Văn phòng TVPL CĐCTVN cung cấp để NLĐ tìm hiểu thêm về vấn đề này.


Trợ cấp mất việc làm và trợ cấp thôi việc đều là những khoản trợ cấp mà NSDLĐ có trách nhiệm chi trả khi NLĐ không còn làm việc nữa. Tuy nhiên 2 khoản trợ cấp này có một số nét khác biệt cơ bản.

Trợ cấp thôi việc

Thôi việc thường là do yếu tố chủ quan. Khi hợp đồng lao động (HĐLĐ) chấm dứt theo quy định tại các khoản 1,2,3,5,6,7,9,và 10 Điều 36 Bộ luật Lao động 2012 (BLLĐ), thì người lao động có trách nhiệm chi trả trợ cấp thôi việc cho người lao động theo Điều 48, bao gồm:

1. Hết hạn HĐLĐ, trừ trường hợp quy định tại Khoản 6 Điều 192 của Bộ luật này.

2. Đã hoàn thành công việc theo HĐLĐ.

3. Hai bên thoả thuận chấm dứt HĐLĐ.

4. NLĐ bị kết án tù giam, tử hình hoặc bị cấm làm công việc ghi trong HĐLĐ theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Toà án.

5. NLĐ chết, bị Toà án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, mất tích.

6. NSDLĐ là cá nhân chết, bị Toà án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc là đã chết; NSDLĐ không phải là cá nhân chấm dứt hoạt động.

7.  NLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ quy định tại Điều 37 của Bộ luật này, do:

- Không được bố trí theo đúng công việc, địa điểm làm việc hoặc không được bảo đảm điều kiện làm việc đã thỏa thuận trong HĐLĐ;

- Không được trả lương đầy đủ hoặc trả lương không đúng thời hạn đã thỏa thuận trong HĐLĐ;

- Bị ngược đãi, quấy rối tình dục, cưỡng bức lao động;

- Bản thân hoặc gia đình có hoàn cảnh khó khăn không thể tiếp tục thực hiện HĐLĐ;

- Được bầu làm nhiệm vụ chuyên trách ở cơ quan dân cử hoặc được bổ nhiệm giữ chức vụ trong bộ máy nhà nước;

- Lao động nữ mang thai phải nghỉ việc theo chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền;

- Bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 90 ngày liên tục đối với người làm việc theo HĐLĐ xác định thời hạn và 1/4 thời hạn hợp đồng đối với người làm việc theo HĐLĐ theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng mà khả năng lao động chưa được hồi phục.

8. NSDLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ theo quy định tại Điều 38 của BLLĐ trong các trường hợp sau:

- NLĐ thường xuyên không hoàn thành công việc theo HĐLĐ;

- NLĐ bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 12 tháng liên tục đối với người làm việc theo HĐLĐ không xác định thời hạn, đã điều trị 06 tháng liên tục đối với NLĐ làm theo HĐLĐ xác định thời hạn và quá 1/2 thời hạn HĐLĐ đối với người làm việc theo HĐLĐ mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng mà khả năng lao động chưa hồi phục.

- Do thiên tai, hỏa hoạn hoặc những lý do bất khả kháng khác theo quy định của pháp luật, mà NSDLĐ đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng vẫn buộc phải thu hẹp sản xuất, giảm chỗ làm việc;

- NLĐ không có mặt tại nơi làm việc sau 15 ngày hoặc thời hạn khác do 2 bên thỏa thuận sau khi hết thời hạn tạm hoãn thực hiện HĐLĐ.

 9. NSDLĐ cho NLĐ thôi việc do thay đổi cơ cấu, công nghệ hoặc vì lý do kinh tế hoặc do sáp nhập, hợp nhất, chia tách doanh nghiệp.

Khi chấm dứt HĐLĐ trong các trường hợp trên NLĐ đã làm việc thường xuyên trong doanh nghiệp từ đủ 12 tháng trở lên được hưởng trợ cấp thôi việc, cứ mỗi năm làm việc là nửa (1/2) tháng lương.

Tiền trợ cấp thôi việc = Tổng thời gian làm việc tính trợ cấp thôi việc x Tiền lương làm căn cứ tính trợ cấp thôi việc x 1/2 

Trong đó:

- Tổng thời gian làm việc tính trợ cấp thôi việc tính theo năm, trừ thời gian đóng bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) và thời gian làm việc đã được NSDLĐ chi trả trợ cấp thôi việc. Nếu thời gian làm việc tính trợ cấp thôi việc có tháng lẻ (kể cả trường hợp NLĐ có thời gian làm việc từ đủ 12 tháng trở lên nhưng tổng thời gian tính trợ cấp thôi việc dưới 12 tháng) thì được làm tròn: Từ đủ 1 tháng đến dưới 6 tháng làm tròn thành 1/2 năm, từ đủ 6 tháng đến dưới 12 tháng làm tròn thành 1 năm.

- Tiền lương làm căn cứ tính trợ cấp thôi việc là tiền lương, tiền công theo HĐLĐ, được tính bình quân của 6 tháng liền kề trước khi chấm dứt HĐLĐ, gồm tiền công hoặc tiền lương cấp bậc, chức vụ, phụ cấp khu vực, phụ cấp chức vụ (nếu có).

Trợ cấp mất việc làm

Mất việc làm thường là do yếu tố khách quan, quy định cụ thể tại Điều 44 và 45 BLLĐ, cụ thể trường hợp 9 tại mục A nói trên, tức là việc thay đổi cơ cấu, công nghệ hoặc vì lý do kinh tế hoặc do sáp nhập, hợp nhất, chia tách doanh nghiệp làm ảnh hưởng đến việc làm của NLĐ.

Theo quy định này, ngoài trợ cấp thôi việc NSDLĐ phải trả trợ cấp mất việc làm cho NLĐ đã làm việc thường xuyên cho mình từ 12 tháng trở lên mà bị mất việc, mỗi năm làm việc trả 01 tháng tiền lương nhưng ít nhất phải bằng 02 tháng tiền lương. Cách tính thời gian làm việc cũng như tiền lương làm căn cứ trả trợ cấp mất việc tương tự như trợ cấp thôi việc.

TÓM LẠI:

1. Nếu NLĐ chấm dứt HĐLĐ vì lí do chủ quan thì được hưởng trợ cấp thôi việc mỗi năm làm việc 1/2 tháng lương.

2. Nếu NLĐ chấm dứt HĐLĐ vì lí do khách quan thì được hưởng cả trợ cấp thôi việc và trợ cấp mất việc (1/2 + 1 tháng lương).

3. Nếu NSDLĐ đã đóng BHTN thì sẽ được miễn trách nhiệm 2 loại trợ cấp trên. Như vậy, nếu doanh nghiệp hoạt động sau 2009 và đã đóng BHTN thì hoàn toàn không phải chi trả khoản trợ cấp nào khác khi NLĐ nghỉ việc.

 Văn phòng TVPL CĐCTVN